*Đối tượng nghiên cứu là cá rô phi sông Nile, cá rô phi vằn được nuôi trong hệ thống tái tuần hoàn (Re-circulating System))
Bài nghiên cứu dưới đây sẽ phân tích ảnh hưởng của protein đối với cá rô phi, tỷ lệ nào phù hợp trong việc phát triển, tỷ lệ sống của chúng
Tác giả:
- Abdoulaye Loum from Gaston Berger University, Saint-Louis
- Mariama Sagne
- Jean Fall from Cheikh Anta Diop University, Dakar
- Diegane Ndong from Walden University
Contents
Tóm tắt
- Cá rô phi vằn được cho ăn với 5 tỷ lệ protein khác nhau trong khẩu phần (21%, 25%, 32%, 37% và 45%) để nghiên cứu các tác động ngẫu nhiên đến hiệu suất tăng trưởng, thành phần thân thịt và tỷ lệ sống sót.
- Các thử nghiệm được thực hiện trong 10 thùng chứa (50 x 25 x 40 cm) (50 Lít) có hệ thống lưới được duy trì ở nhiệt độ 30 ± 1°C.
- Khi bắt đầu thử nghiệm, 100 con cá rô phi mới nở được chia ngẫu nhiên thành 5 nhóm khác nhau với 2 lần lặp lại.
- Khẩu phần được cho ăn theo nhóm 10 con cá bột với trọng lượng ban đầu là 1,25 ± 0,25 g/con trong 42 ngày.
Kết quả cho thấy có ảnh hưởng đáng kể của protein trong khẩu phần đối với hiệu suất tăng trưởng của cá.
- Mức cân nặng (Weight Gain – WG) và Tốc độ tăng trưởng riêng (Specific Growth Rate – SGR) tăng đáng kể khi tăng mức protein trong khẩu phần từ 32,38% đến 37,63%.
- Tuy nhiên, mức 45,5% protein thô cho thấy có ít sự gia tăng về các thông số tăng trưởng.
- Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn FCR tốt nhất (1,26) được nhận thấy trong khẩu phần chứa 37,63% protein thô.
- Theo đó, tỷ lệ sống (%) cao hơn được ghi nhận ở cá được cho ăn khẩu phần chứa 32,38% và 37,63%.
- Không có sự khác biệt đáng kể về hàm lượng protein trong cơ thể cá rô phi được cho ăn ở 5 chế độ ăn so với cá ban đầu.
- Hàm lượng lipid trong cơ thể tăng lên đáng kể khi khẩu phần có hàm lượng protein cao từ 21,88% đến 45,50%.
- Lipid thô trong thân thịt được ghi nhận là cao hơn (9,4%) ở cá bột được cho ăn thức ăn chứa 45,50% protein, tiếp theo là cá được cho ăn thức ăn có protein 21,88%.
Từ kết quả, chế độ ăn chứa 37,63% protein thô dường như phù hợp hơn cho sự phát triển của cá rô phi trong các điều kiện thử nghiệm liên quan.
1. Giới thiệu
Nuôi trồng thủy sản ngày nay đang phát triển ở Sénégal và ngày càng trở thành nguồn cung cấp protein động vật quan trọng. Cá rô phi, loài được nuôi nhiều nhất trên toàn thế giới, được coi là loài cá nước ngọt được nuôi bán thâm canh nhất ở Sénégal (NAA, 2012).
Thức ăn chiếm 40-60% chi phí sản xuất trong nuôi trồng thủy sản, trong đó nguồn protein chiếm tỷ trọng đáng kể trong chi phí đó (Fotedar, 2004).
Một mặt, protein cung cấp các axit amin thiết yếu và không thiết yếu cần thiết cho sự hình thành cơ bắp và chức năng enzym, mặt khác cũng cung cấp năng lượng để duy trì (Yang và cộng sự, 2002).
Protein dư thừa trong chế độ ăn của cá có thể gây lãng phí và khiến chế độ ăn trở nên đắt đỏ một cách vô ích (Ahmad, 2000).
Một trong những yếu tố chính hạn chế sự thành công kinh tế trong bất kỳ hoạt động chăn nuôi thương mại loài nào là nhu cầu về thức ăn.
Là thành phần dinh dưỡng quan trọng, protein của động vật có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng khẩu phần và do đó ảnh hưởng đến chi phí sản xuất. Hơn nữa đây còn là thành phần chính và đắt nhất trong chế độ ăn của vật nuôi nên protein thu hút sự chú ý nhiều hơn trong các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng.
Nhu cầu protein (chất dinh dưỡng đa lượng đắt tiền nhất) đối với cá bột rất cao và dao động từ 35% đến 56% (Jaunty & Ross, 1982). Hơn nữa, nhu cầu protein trong khẩu phần giảm theo kích thước phát triển và tuổi của cá (El-Sayed & Teshima, 1991).
Dựa trên nhiều nghiên cứu khác nhau, kết luận chung được đưa ra là:
- Cá rô phi có kích thước <1 g cần chế độ ăn có 35-50% protein
- Trong khi 1-5 g cá cần chế độ ăn có 30-40% protein
- 5-25 g cá cần chế độ ăn có 25- 35% protein (Balarin & Haller, 1982).
Thức ăn dành cho cá bột thường chứa hàm lượng protein cao hơn vì nhu cầu về năng lượng và sau này cao hơn trong giai đoạn đầu đời.
Hàm lượng protein trong thức ăn cho cá rô phi chưa được tiêu chuẩn hóa mặc dù một số trang trại sử dụng thức ăn có hàm lượng protein là 40%. Vì vậy, điều cần thiết là phải khuyến nghị mức protein thích hợp trong thức ăn cho cá bột để sản xuất cá bột khỏe mạnh một cách kinh tế và tối đa hóa tuổi thọ của nó.
Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại đã được thực hiện để tiến hành thử nghiệm với các chế độ ăn có mức protein khác nhau. 21%, 25%, 32%, 37% và 45% protein trong thức ăn cho cá bột để xác định hiệu suất tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô phi bột ở các mức protein khác nhau.
Mục tiêu chính của thử nghiệm này là xác định mức protein tối ưu cần thiết cho sự tăng trưởng tối ưu của cá rô phi.
2. Vật liệu và phương pháp
2.1 Điều kiện nuôi cấy
Cá rô phi chuyển đổi giới tính đực (Oreochromis niloticus) có trọng lượng ban đầu 1,25 ± 0,25 g được thu thập từ trại sản xuất cá rô phi giống ở Richard Toll, Saint Louis, Senegal. Cá được làm quen với điều kiện thí nghiệm trong thời gian hai tuần.
Trong giai đoạn này, chúng được cho ăn theo chế độ ăn thương mại như đã thực hiện trước đây tại trại giống nêu trên.
Để xác định thành phần cơ thể ban đầu, 20 con cá được chọn ngẫu nhiên đã bị giết, phi lê và bảo quản ở -18°C để phân tích gần đúng ở giai đoạn sau (AOAC, 1990). Khi bắt đầu thí nghiệm, một trăm con được chia ngẫu nhiên thành năm nhóm khác nhau với hai lần lặp lại, mỗi nhóm có 10 con cá.
- Cá được nuôi trong 10 thùng thủy tinh (50 cm x 25 cm x 40 cm) (50 L). Mỗi bể cá được đặt trong một hệ thống tuần hoàn được duy trì ở nhiệt độ 30 ± 1°C và không khí được liên tục sục vào mỗi bể cá.
- Tất cả các bể cá đều được dọn dẹp hàng ngày vào buổi sáng và buổi chiều bằng cách hút hết chất thải tích tụ.
- Cá được cho ăn với lượng 10% trọng lượng thân/ngày và giảm dần xuống 4%/ngày.
- Mỗi khẩu phần được cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 08 giờ (sáng) và 17 giờ (chiều) trong 42 ngày để nhân đôi nhóm cá.
- Mỗi nhóm được cân vào lúc bắt đầu và trong mỗi vài tuần; lượng thức ăn cho ăn đã được điều chỉnh tương ứng.
- Chu kỳ quang học là 12 giờ sáng, 12 giờ tối (08:00-20:00h) đã được sử dụng.
- Đèn trần huỳnh quang cung cấp ánh sáng.
- Sau 6 tuần (42 ngày) cho ăn hoặc nuôi, những con cá liên quan được đưa ra khỏi mỗi đợt điều trị, trong khi mô cơ lưng của mỗi con được mổ xẻ và sử dụng để phân tích thành phần cơ thể.
2.2 Chuẩn bị chế độ ăn
5 khẩu phần ăn được xây dựng gồm các mức protein tiêu hóa khác nhau và lượng năng lượng tiêu hóa xấp xỉ bằng nhau.
Trong đó, tổng lượng protein trong khẩu phần ăn gồm:
- 10% là từ bột cá (FM, protein thô 58,71%)
- 90% từ các tỷ lệ khác nhau của bột ngô và bột tôm (protein thô 48,12%) (Bảng 1).
Bảng 1. Thành phần khẩu phần thí nghiệm cho cá rô phi (Oreochromis niloticus)
Thành phần (Ingredients) | 21% | 25% | 32% | 37% | 45% |
Bộ cá (Fish meal) | 17 | 17 | 17 | 17 | 17 |
Bột ngô (Maize meal) | 578 | 432 | 285 | 138 | 7 |
Bột tôm (Shrimp waste) meal | 72 | 218 | 365 | 511 | 643 |
Cellulose | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 |
Dầu cá (Fish Oil) | 20 | 20 | 20 | 20 | 20 |
Dầu thực vật (Vegetable oil) (PO + SO)* | 40 | 40 | 40 | 40 | 40 |
Vit mixa | 10 | 10 | 10 | 10 | 10 |
Min mixb | 10 | 10 | 10 | 10 | 10 |
- *PO: dầu đậu phộng
- *SO: dầu đậu nành
- PO/SO: tỷ lệ 1:1
- Nguồn protein chính (bột cá, bột tôm và bột ngô) đã được nghiền vào máy nghiền và được chuyển thành dạng hạt lọt lưới sàng 40 (425µm).
- Hỗn hợp khoáng và vitamin được mua từ Công ty Aquavet, Thiès, Senegal.
- Sau khi trộn đều nguyên liệu, cho lượng nước vừa đủ (30% cho 100 g nguyên liệu đã trộn).
Lúc đầu, thức ăn được pha chế có chứa 21%, 25%, 32%, 37% và 45% protein từ 3 thành phần như bột cá, bột ngô và bột tôm.
Việc xây dựng công thức thức ăn được thực hiện theo phương pháp của Pearson. Sau khi lập công thức, thức ăn được chuẩn bị bằng cách trộn các thành phần và thực hiện phân tích gần đúng.
Mức protein của thức ăn chế biến sẵn lần lượt là 21,88%, 25,57%, 32,38%, 37,63% và 45,50% (Bảng 2). Khẩu phần được bổ sung 6% hỗn hợp dầu cá (FO) và dầu thực vật (VO). Bột được đưa qua máy ép đùn và sấy khô ở 37°C trong hai ngày.
Khẩu phần khô được đóng gói vào túi nhựa và bảo quản đông lạnh để sẵn sàng sử dụng. Thành phần gần đúng của khẩu phần thí nghiệm và mẫu cơ lưng được phân tích theo phương pháp tiêu chuẩn AOAC (1984).
Bảng 2. Phân tích gần đúng các khẩu phần thử nghiệm cho cá rô phi (Oreochromis niloticus)
Treatments |
|||||
Composition | 21% | 25% | 32% | 37% | 45% |
Dry matter * | 89.55 | 89.12 | 88.87 | 88.39 | 87.31 |
Crude Protein * | 21.88 | 25.57 | 32.38 | 38.63 | 45.5 |
Crude lipid * | 8.96 | 7.4 | 6.71 | 7.21 | 05.02 |
Crude fiber * | 4.9 | 6.4 | 3.57 | 07.04 | 9.42 |
Ash | 2 | 02.42 | 02.98 | 03.76 | 04.46 |
Energy (cal/kg) | 176.4 | 196.48 | 211.11 | 217.73 | 266.1 |
2.3 Thông số tăng trưởng
Các thông số phản ứng tăng trưởng được tính như sau:
- Tăng trọng (WG, g/con) = trọng lượng cơ thể trung bình cuối cùng – trọng lượng cơ thể trung bình ban đầu
(weight gain (WG, g/ fish) = final mean body weight – initial mean body weight)
- Tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR, %/ngày) = ((In Wt- In Wi) /T) x 100
(specific growth rate (SGR, % /day) = ((In Wt- In Wi) /T) x 100)
Trong đó:
– Wt là trọng lượng cá tại thời điểm t
– Wi là trọng lượng cá tại thời điểm 0
– T là thời điểm nuôi thời gian tính bằng ngày
- Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) = tổng thức ăn khô cho ăn (g/con)/tổng trọng lượng khi ướt (g/con).
(feed conversion rate (FCR) = total dry feed fed g/ fish / total wet weight gain g/ fish)
- Tỷ lệ sống (%) = (số cá sống sót/số cá ban đầu) x 100.
(Survival rate (%) = 100 (number of fish which survived/initial number of fish))
2.4 Đo chất lượng nước
Nhiệt độ nước và lượng oxy hòa tan được đo cách ngày bằng máy đo oxy YSI Model 58 (Yellow Springs Instrument, Yellow Springs, OH, USA).
2.5 Phân tích thống kê
Dữ liệu được phân tích bằng hệ thống thống kê (SAS-PC) (Joyner, 1985) và được phân tích phương sai một chiều (ANOVA). Hiệu quả điều trị được coi là có ý nghĩa với P<0,05; Thử nghiệm của Duncan được sử dụng để so sánh sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp điều trị.
3. Kết quả
Nhiệt độ nước được theo dõi trong thời gian nghiên cứu trong bể thí nghiệm là 29 đến 31°C, hàm lượng oxy hòa tan trong thí nghiệm này dao động từ 5 đến 7 mg/l.
Tăng trọng (WG), Tốc độ tăng trưởng riêng (SGR) và Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) của cá rô phi bột sau khi thử nghiệm cho ăn được trình bày trong Bảng 3.
Mức protein trong khẩu phần ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng trưởng của cá rô phi bột và kết quả tốt nhất thu được với mức protein trong khẩu phần là 32% và 37% đối với tăng trọng, SGR và FCR cũng như tỷ lệ sống.
Vì vậy, khẩu phần chứa khoảng 32% đến 37% protein có thể là tỷ lệ protein chấp nhận được để sản xuất cá bột O. niloticus.
- FCR ở các nghiệm thức khác nhau dao động từ 1,26 đến 1,91. FCR tốt nhất (1,26) được quan sát thấy ở khẩu phần chứa 37% protein thô (Bảng 3).
- Tỷ lệ sống của cá bột O. niloticus ở các nghiệm thức khác nhau dao động từ 75 đến 100% là 75% ở cá được cho ăn khẩu phần chứa 21%, 90% ở cá được cho ăn khẩu phần chứa 25% và 45%.
- Tỷ lệ sống cao hơn đáng kể (P<0,05) (100%) được ghi nhận trong trường hợp 32% và 37% (Bảng 3).
Dữ liệu về thành phần thân thịt được trình bày trong Bảng 4. Không có sự khác biệt đáng kể về hàm lượng protein trong cơ thể cá rô phi được cho ăn 5 chế độ ăn so với cá ban đầu.
Hàm lượng lipid trong cơ thể tăng đáng kể (P<0,05) khi tăng mức protein trong khẩu phần từ 21% lên 45%, nhưng không tăng đáng kể ở khẩu phần 37% protein so với cá ban đầu.
Lipid thô trong thân thịt được ghi nhận là cao nhất (9,4%) ở cá bột được cho ăn với chế độ ăn chứa 45% protein thô, tiếp theo là cá được cho ăn với chế độ ăn có chứa 21%.
Không có sự khác biệt đáng kể (P> 0,05) về lipid thô trong thân thịt của cá bột được cho ăn khẩu phần có hàm lượng protein 25% và 32%.
Bảng 3. Trọng lượng ban đầu, trọng lượng cuối cùng, tăng trọng, SGR, FCR và tỷ lệ sống của cá rô phi (Oreochromis niloticus)
Treatments |
|||||
Parameters | 21% | 25% | 32% | 37% | 45% |
Initial weight g/fish | 1.24 | 1.25 | 1.21 | 1.24 | 1.26 |
Final weight g/fish | 9.55 | 10.45 | 13.87 | 14.92 | 9.97 |
Weight gain g/fish | 8.31b | 9.21b | 12.66a | 13.68a | 8.71b |
Weight gain (%) | 672.12b | 740.79b | 1050.79a | 1102.35a | 694.05b |
SGR | 1.66ab | 1.68ab | 1.39ab | 1.26a | 1.91b |
FCR | 4.84b | 5.07b | 5.82a | 5.92a | 4.93b |
Survival (%) | 75 | 90 | 100 | 100 | 90 |
- ab nghĩa là các số trong cùng một cột có các chữ cái khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê ( P < 0,05)
Bảng 4. Phân tích gần đúng cơ lưng cá rô phi (Oreochromis niloticus)
Composition | Initial fish | 21% | 25% | 32% | 37% | 45% |
Protein (N x 6.25%) | 18.38a | 19.69a | 18.81a | 19.88a | 18.75a | 20.12a |
Lipid (%) | 3.4c | 7.4bc | 5.0ab | 4.2bc | 3.7c | 9.4a |
- abc nghĩa là các số trong cùng một cột có chữ cái khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
4. Thảo luận
Nghiên cứu hiện tại cho thấy có ảnh hưởng đáng kể của mức protein trong khẩu phần đến hiệu suất tăng trưởng của cá rô phi. Tăng trọng và tốc độ tăng trưởng riêng của cá được cải thiện đáng kể khi tăng hàm lượng protein trong khẩu phần từ 21% lên 37%.
Tuy nhiên, không có sự gia tăng đáng kể ở cá được cho ăn khẩu phần chứa 21%, 25% và 45% protein.
Kết quả tốt nhất thu được với mức protein trong khẩu phần là 32% và 37% về mức tăng cân, SGR. Điều này có thể là do sự gia tăng sử dụng protein và khả năng tiêu hóa với mức tăng protein trong khẩu phần lên tới 37%.
Sự giảm WG và SGR ở mức protein trong khẩu phần 45% có thể là do sự giảm sử dụng protein và khả năng tiêu hóa trên mức protein 37% trong khẩu phần.
Nhiều tác giả thu được kết quả trái ngược nhau từ nghiên cứu của họ về dinh dưỡng cá rô phi.
- Nhu cầu protein trong khẩu phần ăn của một số loài cá rô phi được ước tính dao động từ 20% đến 56% (El-Sayed & Teshima, 1992).
- Siddiqui và cộng sự (1988) đã báo cáo nhu cầu khẩu phần tối ưu là 40% đối với cá bột O. niloticus (trọng lượng ban đầu 0,838g) và 30% đối với cá con (trọng lượng ban đầu 40g). Jauncey (1982a) và El-Sayed & Teshima, (1992) cũng báo cáo tỷ lệ cá giống và cá bột tương ứng là 40%.
- Kaushik và cộng sự (1995) đã quan sát thấy tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn tối đa ở mức 35% protein cho cùng một loài.
- Diyaware và cộng sự (2009) cho thấy tốc độ tăng trưởng tốt nhất ở cá da trơn lai, Heterobranchus bidorsalis × Clarias anguillaris ở mức protein thô trong khẩu phần ăn là 40%, điều này cũng hỗ trợ cho phát hiện của chúng tôi.
- Sotolu (2010) đã báo cáo rằng mức protein trong khẩu phần là 40% dẫn đến tăng trọng trung bình hiệu quả, tốc độ tăng trưởng cụ thể và tỷ lệ chuyển hóa thức ăn ở C.gariepinus.
- Adewolu & Adoti (2010) báo cáo rằng cá được cho ăn liên tục với chế độ ăn giàu protein (35%) dẫn đến tốc độ tăng trưởng và khả năng sử dụng thức ăn ở C. gariepinus cao hơn đáng kể.
- Ahmad và cộng sự (2012) báo cáo rằng tốc độ tăng trưởng cao nhất của cá rô phi đạt được trong thức ăn có hàm lượng protein 40% trong thời gian nghiên cứu.
Sự khác biệt được báo cáo có thể là do các nguồn protein khác nhau được sử dụng, các thành phần khác nhau, phương pháp xây dựng công thức, điều kiện môi trường khác nhau, mức độ ăn vào và thời gian thử nghiệm.
Trong nghiên cứu này, FCR tốt nhất thu được ở cá được cho ăn thức ăn chứa 37% protein, FCR kém nhất được quan sát thấy ở cá được cho ăn thức ăn có 45% protein, nhưng không có sự khác biệt đáng kể giữa FCR thu được ở các mức 21, 25, 32. Chế độ ăn % chất đạm.
Những kết quả này phù hợp với kết quả của Wee & Tuan (1988), người đã báo cáo rằng giá trị FCR tốt hơn đạt được khi tăng mức protein trong khẩu phần lên tới 42,5% và bị suy giảm nhẹ do khẩu phần chứa 50% loài cá rô phi.
- Tỷ lệ sống của cá bột O. niloticus ở các phương pháp điều trị khác nhau dao động từ 75 đến 100% là 75% trong thức ăn cho cá bột chứa 21,88% protein.
- Tỷ lệ sống (%) cao hơn đáng kể (P<0,05) được ghi nhận trong trường hợp khẩu phần chứa 32% và 37%.
- Tỷ lệ sống trên 80% là rất tốt trong quá trình ương dưỡng (Sumi và cộng sự, 2011).
Do đó, từ những phát hiện này, có thể gợi ý rằng thức ăn cho cá bột chứa 32 đến 37% protein là phù hợp cho việc nuôi cá rô phi bột.
Ahmad và cộng sự (2012); Tidwell và cộng sự. (2005) và Pedro và cộng sự, (2001) đã báo cáo sự gia tăng hàm lượng protein trong thân thịt khi tăng mức protein trong khẩu phần.
Ngược lại, trong nghiên cứu này không có sự khác biệt đáng kể nào về hàm lượng protein trong cơ thể cá rô phi được cho ăn ở 5 chế độ ăn so với cá ban đầu. Không quan sát thấy mối liên hệ giữa hàm lượng protein trong khẩu phần và thành phần chất béo trong thân thịt. Không có xu hướng xác định được xác định trong nghiên cứu này.
Điều này trái ngược với kết quả được báo cáo bởi (Ahmad và cộng sự, 2012), người đã báo cáo rằng hàm lượng lipid trong thân thịt thể hiện mối quan hệ tích cực với mức lipid trong khẩu phần ăn ở cá rô phi và cá hồi vân được báo cáo bởi (Yamamoto và cộng sự, 2000; Gumus & Ikiz, 2009 ).
Hơn nữa, Attack và cộng sự. (1979); Chen & Tsai, (1994) quan sát mối quan hệ tuyến tính hoặc nghịch đảo tương ứng.
Dữ liệu về hàm lượng lipid trong cơ thể cá tương ứng với khẩu phần ăn có thể được chia thành ba nhóm.
- Nhóm đầu tiên đề cập đến cá có hàm lượng lipid trong thân thịt tăng đáng kể (P<0,05) khi mức protein trong khẩu phần tăng từ 21% lên 45%.
- Nhóm thứ hai bao gồm cá được cho ăn với chế độ ăn 37% protein mà hàm lượng lipid trong cơ thể không tăng đáng kể so với cá ban đầu.
- Ngược lại, nhóm cuối cùng có hàm lượng lipid giảm đáng kể khi tăng hàm lượng protein trong khẩu phần lên tới 30% protein thô (Bahnasawy, 2009).
Lipit thô trong thân thịt được ghi nhận là cao nhất (9,4%) ở cá bột được cho ăn thức ăn 45%, tiếp theo là cá được cho ăn thức ăn 21%. Những quan sát tương tự đã được báo cáo bởi (Ahmad và cộng sự, 2012).
Tóm lại, nghiên cứu này chỉ ra rằng chế độ ăn chứa 37% protein thô dường như là phương pháp nuôi cá rô phi bột phù hợp, kinh tế và thành công hơn.
Lời cảm ơn
Tác giả của nghiên cứu nói trên xin cảm ơn các nhân viên của Cơ quan Nuôi trồng Thủy sản Quốc gia (NAA) của Senegal đã cung cấp cho chúng tôi cá, hỗn hợp vitamin và hỗn hợp khoáng chất. Họ đánh giá cao sự hỗ trợ của các nhân viên phòng thí nghiệm Ecole Supérieure Polytechnique (ESP) và Ecole Nationale des Sciences Agronomiques (ENSA).
——–
Từ nghiên cứu trên cho thấy, chế độ ăn chứa 37% protein thô dường như là phương pháp nuôi cá rô phi bột phù hợp, có tính kinh tế và thành công hơn. Mặc dù vậy, con số này khi áp dụng vào thực tế có thể thay đổi ít nhiều vì tùy thuộc vào nguồn protein, thành phần thức ăn, phương pháp xây dựng công thức, điều kiện môi trường, mức độ cho ăn và thời gian nuôi khác nhau.
Chính vì vậy, khi áp dụng thực tế cần có sự quan sát và điều chỉnh sao cho phù hợp và có tính kinh tế nhất.
Hiện nay, có rất nhiều nguồn nguyên liệu/phụ gia cung cấp protein dùng trong chăn nuôi cá rô phi như bột cá, bột tôm, bột xương thịt hoặc bột huyết. Trong đó, đạm đơn bào đang được nhận định có tiềm năng mang lại sự hiệu quả tuyệt vời cho ngành chăn nuôi vì có thể là giải pháp mới giải quyết được những vấn đề về giá cả và chất lượng từ sản phẩm từ đạm động vật trước đây.
Đạm đơn bào có nhiều ưu điểm như:
- Giá rẻ, biến động giá thấp
- Chất lượng đảm bảo, không chứa vi khuẩn gây hại cho vật nuôi
- Nguồn hàng ổn định
- Thời gian giao nhận nhanh chóng vì có nhà máy tại Việt Nam
- Sản phẩm không chứa chất kháng dinh dưỡng, không chứa chất xơ và tinh bột
- Sản phẩm có tính dẫn dụ cao, kích thích cho vật nuôi ăn ngon miệng và ăn nhiều hơn. Cũng giúp tránh việc lãng phí thức ăn, đảm bảo môi trường sống cho vật nuôi.
- Giảm được bụi, tạo kết cấu viên thức ăn ăn bền chắc hơn.
Còn rất nhiều ưu điểm mà Đạm Đơn Bào có thể mang lại, để biết chi tiết vui lòng liên hệ
- Địa chỉ: 30/2D, Đường 8, Khu phố 5, Phường Tăng Nhơn Phú B, TP. Thủ Đức, TP. HCM
- Hotline: 0916.701.099
- Email: tuongvi@phuankhanh.net
- Fanpage: https://www.facebook.com/PhuAnKhanh
Đạm đơn bào hiện nay gồm có 3 sản phẩm ngách chính, cụ thể:
- Đạm dạng lỏng FML: tỷ lệ đạm tối thiểu 25%
- Đạm dạng bột Ajitein: tỷ lệ đạm tối thiểu 52%
- Đạm dạng viên Vedafeed: tỷ lệ đạm tối thiểu 60%
Phú An Khánh rất vui khi được phục vụ Quý Khách.
Bài viết được dịch bởi Phú An Khánh từ bài nghiên cứu “Effects of Dietary Protein Level on Growth Performance, Carcass Composition and Survival Rate of Fry Monosex Nile Tilapia, Oreochromis niloticus Reared under Re-circulating System” của trang Reseach Gate.
Phú An Khánh hiện đang là nhà phân phối các sản phẩm nguyên liệu và phụ gia dùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi như cám mì, bã nành, đạm đơn bào…. Chúng tôi cung cấp số lượng lớn cho nhà máy sản xuất thức ăn và chăn nuôi và trang trại chăn nuôi lớn (không bán lẻ). Để được tư vấn và báo giá, vui lòng liên hệ với Phú An Khánh qua:
Công ty TNHH TMDV XNK Phú An Khánh
- Địa chỉ: 30/2D, Đường 8, Khu phố 5, Phường Tăng Nhơn Phú B, TP. Thủ Đức, TP. HCM
- Hotline: 0916.701.099 – 0941.204.488 – 0945.446.194
- Email: tuongvi@phuankhanh.net
- Zalo OA: zalo.me/2663064094813696270
- Fanpage: https://www.facebook.com/PhuAnKhanh